On one occasion the Blessed One, while wandering on tour among the Kosalans together with a large community of monks, arrived at Nalanda. There he stayed at Nalanda in Pavarika's Mango Grove.



Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân tộc Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến Nàlandà. Tại đây, Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvarikamba.

 

Now at that time Nalanda was in the midst of famine, a time of scarcity, the crops white with blight and turned to straw.
And at that time Nigantha Nataputta was staying in Nalanda together with a large following of niganthas.
Then Asibandhakaputta the headman, a disciple of the niganthas, went to Nigantha Nataputta and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, Nigantha Nataputta said to him:
-"Come, now, headman. Refute the words of the contemplative Gotama, and this admirable report about you will spread afar: 'The words of the contemplative Gotama — so mighty, so powerful — were refuted by Asibandhakaputta the headman!'"


Lúc bấy giờ, Nàlandà đang bị đói kém, khó để lo miệng sống (dviihitikà), xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ (sàlàkàvuttà).
Lúc bấy giờ Nigantha Nàtaputta sống ở Nàlandà với đại chúng Nigantha.
Rồi Thôn trưởng Asibandhakaputta, đệ tử của Nigantha Nàtaputta, đi đến Nigantha Nàtaputta; sau khi đến đảnh lễ Nigantha Nàtaputta rồi ngồi xuống một bên.
Nigantha Nàtaputtta nói với thôn trưởng Asibandhakaputta đang ngồi một bên:
-" Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến cật vấn Sa-môn Gotama. Như vậy, tiếng đồn tốt đẹp sẽ được lan khắp về Ông: "Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị thôn trưởng Asibandhakaputta cật vấn!"

 

"But how, venerable sir, will I refute the words of the contemplative Gotama — so mighty, so powerful?"


- Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể cật vấn Sa-môn Gotama, một vị có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy?

 

"Come now, headman. Go to the contemplative Gotama and on arrival say this:
-'Venerable sir, doesn't the Blessed One in many ways praise kindness, protection, & sympathy for families?'
If the contemplative Gotama, thus asked, answers, 'Yes, headman, the Tathagata in many ways praises kindness, protection, & sympathy for families,'
Then you should say:
-'Then why, venerable sir, is the Blessed One, together with a large community of monks, wandering on tour around Nalanda in the midst of famine, a time of scarcity, when the crops are white with blight and turned to straw? The Blessed One is practicing for the ruin of families. The Blessed One is practicing for the demise of families. The Blessed One is practicing for the downfall of families.'
When the contemplative Gotama is asked this two-pronged question by you, he won't be able to swallow it down or spit it up."


Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến Sa-môn Gotama; sau khi đến nói với Sa-môn Gotama như sau:
"- Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán bảo vệ các gia đình, tán thán từ mẫn với các gia đình"?
Này Thôn trưởng, được hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama, trả lời như sau:
"- Đúng như vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn".
Thời ông hỏi Sa-môn Gotama:
"- Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ? Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành sự bất hạnh cho các gia đình, thực hành sự tổn hại cho các gia đình".
Như vậy, này Thôn trưởng, bị ông hỏi với câu hỏi có hai đầu nhọn, Sa-môn Gotama không có thể nhổ ra, cũng như không có thể nuốt xuống.

 

Responding, "As you say, venerable sir," Asibandhakaputta the headman got up from his seat, bowed down to Nigantha Nataputta, circumambulated him, and then went to the Blessed One. On arrival, he bowed down to the Blessed One and sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One:
-"Venerable sir, doesn't the Blessed One in many ways praise kindness, protection, & sympathy for families?"


Thưa vâng, Tôn giả. Thôn trưởng Asibandhakaputta vâng đáp Nigantha Nàtaputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nàtaputta, thân phía hữu hướng về người rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, thôn trưởng đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:
- Có phải, bạch Thế Tôn, Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn?

 

"Yes, headman, the Tathagata in many ways praises kindness, protection, & sympathy for families."


- Đúng vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn.

 

"Then why, venerable sir, is the Blessed One, together with a large community of monks, wandering on tour around Nalanda in the midst of famine, a time of scarcity, when the crops are white with blight and turned to straw? The Blessed One is practicing for the ruin of families. The Blessed One is practicing for the demise of families. The Blessed One is practicing for the downfall of families."


- Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ? Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình.

 

"Headman, recollecting back over 91 aeons, I do not know any family to have been brought to downfall through the giving of cooked alms. On the contrary: Whatever families are rich — with much wealth, many possessions, a great deal of money, a great many accoutrements of wealth, a great many commodities — all have become so from giving, from truth, from restraint.


Này Thôn trưởng, Ta nhớ từ chín mươi mốt kiếp về trước, Ta không hề biết đã có làm hại một gia đình cho đến một bữa cơm nấu cúng dường. Các gia đình ấy đều rất giàu, tiền của nhiều, tài sản nhiều, vàng bạc nhiều, vật dụng nhiều, ngũ cốc nhiều. Tất cả tài sản ấy được thâu hoạch do bố thí, được thâu hoạch một cách chân thật, được thâu hoạch một cách tự chế.

 

"Headman, there are eight causes, eight reasons for the downfall of families.
-Families go to their downfall because of kings,
-Or families go to their downfall because of thieves,
-Or families go to their downfall because of fire,
-Or families go to their downfall because of floods,
-Or their stored-up treasure disappears,
-Or their mismanaged undertakings go wrong,
-Or in the family a wastrel is born who squanders, scatters, & shatters its wealth,

-And inconstancy itself is the eighth.
These are the eight causes, the eight reasons for the downfall of families.
Now, when these eight causes, these eight reasons are to be found, if anyone should say of me, 'The Blessed One is practicing for the ruin of families, the Blessed One is practicing for the demise of families, the Blessed One is practicing for the downfall of families' — without abandoning that statement, without abandoning that intent, without relinquishing that view — then as if he were to be carried off, he would thus be placed in hell."



Này Thôn trưởng, có tám nhân, có tám duyên làm tổn hại các gia đình.
-Do quốc vương, các gia đình đi đến tổn hại.
-Hay do trộm cướp, các gia đình đi đến tổn hại.
-Hay do lửa, các gia đình đi đến tổn hại.
-Hay do nước, các gia đình đi đến tổn hại.
-Hay họ tìm không được tiền của dấu cất.
-Hay do biếng nhác, họ bỏ bê công việc.
-Hay trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại, làm tổn hại (vikirati vidhamati viddhamseti).
-Và vô thường là thứ tám.
Này Thôn trưởng, chính tám nhân, tám duyên này làm tổn hại các gia đình. Này Thôn trưởng, vì rằng tám nhân này, tám duyên này có mặt, có hiện hữu, nếu ai nói về Ta như sau: "Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình; thời này Thôn trưởng, nếu người ấy không bỏ lời nói ấy, không bỏ tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, chắc chắn (yathàhatam) người ấy sẽ bị ném vào địa ngục như vậy.

 

When this was said, Asibandhakaputta the headman said to the Blessed One: "Magnificent, lord! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has the Blessed One — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, & to the community of monks. May the Blessed One remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forward, for life."


Khi được nói vậy, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn: Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!

 

See also: SN 42.8

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |